Tết Trùng Cửu (9/9 âm lịch) – Nguồn gốc và ý nghĩa ít người biết

Theo phong tục tập quán thì ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch hàng năm là ngày Tết cổ xưa của người Việt, gọi là Tết Trùng Dương hay còn gọi là Tết Trùng cửu, ngày tết hoa Cúc. Tết Trùng cửu lấy sự lặp lại của hai số 9 để nói về sự trường thọ. Tết trùng cửu ở Việt Nam ngày nay ít người còn biết đến về một khá phổ biến xưa kia, mang nhiều nét đẹp về văn hóa.


Tết Trùng Cửu (9/9 âm lịch) – Nguồn gốc và ý nghĩa ít người biết

Tết Trùng Cửu

Tết Trùng Cửu còn có một cách nói khác là ‘Từ thanh’, chính là ‘tạm biệt thảm cỏ xanh’. Sau ngày Trùng Cửu là mùa đông, cây cối không có sức sống, không thích hợp để đi chơi ở vùng ngoại ô. Vì thế, tết Trùng Cửu là cơ hội đi chơi sau cùng của mọi người khi thời tiết sang đông.

I. Nguồn gốc của Tết Trùng Cửu

Có nhiều điển tích về ngày Tết này: + Phong tục tập quán này bắt nguồn từ đời Hán. Ngô Quân thời Nam Triều trong “Tục Tề hài ký ‘’ có chép một câu chuyện: “Đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: ” Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn”. Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy. Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.

Vì tích trên, nên về sau hằng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9 ÂL theo lịch âm dương, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn… Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ.

+ Sách “Phong Thổ Ký” lại chép: Cuối đời nhà Hạ (2205-1818 trước D.L.), vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông. Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn… Tục ấy thành lệ.

+ Đến đời Hán Văn Đế (176-156 trước D.L.), vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy. Sau đến đời nhà Đường (618-907) xem ngày mồng 9 tháng 9 thành ngày lễ tết gọi là Trùng Cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh.

II. Các phong tục tập quán trong ngày Tết Trùng Cửu (Tết Trùng Dương)

1. Lên vùng cao

Nhân dịp tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành.

Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến.

2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc


Nguồn gốc, Phong tục và Ý nghĩa của ngày Tết Trùng Cửu

Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương.

Tuy câu chuyện Hoàng Cảnh đại chiến Ôn Thần chỉ là truyền thuyết nhưng việc đeo túi thơm đựng hạt thù du phòng ngừa bệnh dịch lại mang yếu tố khoa học. Ngày Trùng Cửu diễn ra vào lúc giao mùa từ mùa thu sang mùa đông. Đây cũng là thời gian xuất hiện nhiều muỗi gây bệnh truyền nhiễm. Thù du là một loại thảo dược có độc tính nhẹ, có mùi vị nồng, có thể dùng để xua đuổi côn trùng. Cho hạt thù du vào trong túi thơm hoặc cho vào trái hồ lô có khoan nhiều lỗ nhỏ để mùi của hạt lan tỏa trong không khí, tiêu diệt côn trùng. Kỹ thuật may túi thơm và chế tác hồ lô đựng hạt thù du vẫn tồn tại đến nay, tập tục đeo túi thơm đựng hạt thù du cũng còn được giữ gìn ở một số nơi.

Theo danh y đời nhà Minh tên Lý Thời Trân, hoa cúc có công dụng chữa trị nhiều bệnh như đau mắt, chóng mặt, nhức đầu, giải phong nhiệt. Rượu hoa cúc có thể giúp tránh bị trúng gió, khử nhiệt, bổ gan sáng mắt, tiêu viêm giải độc. Rượu hoa cúc có vị đắng, người xưa cho rằng, uống loại rượu này sẽ thêm tuổi thọ nên họ gọi đây là ‘rượu trường thọ’.

Ngoài uống rượu hoa cúc, ngắm nhìn hoa cúc là một trong những phong tục của tết Trùng Cửu. Hoa cúc được xem là loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng, đại diện cho tình bạn và nét nho nhã của danh sĩ. Cúc được xem là một trong bốn loài hoa quân tử: Mai – Lan – Cúc – Trúc.

3. Cài lá châu du

Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam.

Thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt Nam cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.

“Năm ngoái giữa rừng không có lịch
Nhìn hoa cúc nở biết trùng dương”

Câu thơ trên là của một Vị thiền tăng nổi tiếng của Việt Nam, gắn liền với một ngọn núi – núi Yên Tử – nơi phát tích một dòng thiền của Việt Nam – dòng thiền Trúc Lâm nổi tiếng với tứ quý ” Tùng, Cúc, Trúc, Mai “.

III. Ý nghĩa của ngày Tết Trùng Cửu trong cuộc sống hàng ngày

Cổ thi có câu: “Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao”. “Đăng cao” là lên chỗ cao. “Trùng cửu” và “Đăng cao” đều do điển tích trên.

Nhưng truyền thuyết thì cuối cùng cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi. Các nhà nghiên cứu phong thủy cho rằng những câu truyện truyền thuyết của nguồn gốc các phong tục tập quán dân gian loại này, phần lớn đều có sau các phong tục dân gian. Người ta không hiểu những phong tục này vì sao lại sinh ra và lưu hành, nên mới dựng ra một câu chuyện để giải thích hoặc để kèm theo sau khi câu chuyện lưu truyền, và có ảnh hưởng rộng rãi trong dân gian. Trải qua một thời gian dài, người đời sau không tra lại, thế là giả thiết biến thành thật.

Kỳ thực: Tết Trùng Dương uống rượu cúc hoa, đeo cành thù du cũng có tác dụng giống như Tết Đoan Ngọ uống rượu hùng hoàng và treo cành xương bồ, trần ngải. Mục đích là phòng trừ bệnh tật, côn trùng. Sau ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, thời tiết có thời gian ngắn ấm lại. Trong thời gian trước Tết Trùng Cửu mưa thu lất phất, trời âm u, cái nóng vẫn chưa hết, mọi vật dễ trúng độc, con người vào lúc chuyển mùa dễ sinh bệnh tật, cảm cúm. Vì thế, vào thời gian này phải hết sức chú ý phòng côn trùng, phòng nóng lạnh. Mà rượu cúc hoa có tác dụng bình can( gan ), sáng mắt, giải nhiệt, tiêu độc, giải cảm. Mùi của cây Thù Du có tính cay nóng, đắng, hương thơm, có thể đuổi muỗi, sát trùng trị hàn ( lạnh ) , khử độc . Cả hai thứ ấy đều có những tác dụng này. Qua đó có thể thấy, vào tiết này, đeo thù du, uống rượu cúc hoa rất có lợi cho sức khỏe con người, chính là tác dụng quan trọng của cúc hoa và thù du đối với con người vào mùa thu.

Còn Việc trèo lên núi cao trong tiết Trùng Dương, vào tiết trời thu, trời xanh cao, lên núi đi chơi, có thể khiến tinh thần sảng khoái, trong lòng thư thái. Dân chúng lên núi còn có nguyên nhân về mặt kinh tế. Đó là tết Trùng Dương là lúc thu hoạch mùa màng xong xuôi, nông dân nhàn nhã. Lúc này cây thuốc hoa quả trên núi cũng bắt đầu già, chín, chính là dịp tốt để người ta thu hái. Phong tục dân gian lên núi vào những ngày dịp này cũng bắt nguồn từ đây. Còn tập trung vào một ngày tết Trùng Dương cũng có nguyên nhân của nó. Số 9 thời cổ đại là số dương. Cổ nhân cho rằng, vào ngày mồng 9 tháng 9, thì tháng cũng là 9, ngày cũng là 9, hai cái trùng nhau, là ngày lành, ngày tốt, cho nên cùng tập trung lên núi vào ngày này là nhằm ý nghĩa ngày lành, ngày đẹp mà thôi.

Tiết Trùng cửu cây thù du cho những chùm quả đỏ, còn mùa xuân hoa thù du nở vàng rực rỡ khắp cành. Tiết xuân đến hoa thù du nở sớm nhất, có lẽ chỉ sau hàn mai, vốn nở từ lúc cuối đông. Người Nhật còn gọi hoa thù du là hoa hoàng kim của mùa xuân (“xuân hoàng kim hoa”, “hoàng” là màu vàng, “kim” là vàng). Hoa mai báo tin xuân sắp tới, thù du cho biết mùa xuân đã tới rồi.Tên khoa học của cây là Cornus officinalis, tên đầy đủ là sơn thù du.

Nguồn: St.