III. BỆNH HẠI:
1. Bệnh xì mủ, thối gốc trên cây cam quýt
Bệnh xì mủ, thối gốc do nấm phytophthora spp gây ra, là một bệnh rất nguy hiểm trên nhiều cây ăn quả như: cam, quýt, nhãn.... Mầm bệnh thường tồn tại trong đất dưới dạng các động bào tử tự do, chúng tấn công vào cây khi cây có vết thương do quá trình chăm sóc qua thân, cành, lá non... để gây hại.
Triệu chứng:
+ Bệnh chết cây con: Cây bị nấm bệnh tấn công thường có triệu chứng như phần thân có những vết màu đen, bệnh nặng gốc cây teo nhỏ làm cho cây bị gãy rồi chết. Về sau vết bệnh sẽ lan nhanh xuống gây hại bộ rễ, làm cho bộ rễ bị thối hoặc lan lên phía trên thân lá.
+ Nứt thân, cành: Cây bị nấm tấn công thường thể hiện ở vị trí thân giáp rễ, đôi khi xuất hiện ở vị trí cao hơn 50cm và trên cành. Triệu chứng bệnh mới phát có thể thấy trên tán lá: tán lá trở nên thưa thớt, màu nhợt nhạt, thường có màu vàng dọc theo gân lá, cành non nhỏ và chết khô, quả đèo đẹt. Tiếp theo bệnh thể hiện trên thân cây, cành gồm các vết nứt kèm theo chảy mủ, càng ngày tình trạng càng trở nên trầm trọng hơn, vỏ cây bong ra, cây suy kiệt trầm trọng rồi chết.
+ Thối rễ: Hiện tượng thối rễ kèm theo xì mủ thân rất phổ biến trên cây ăn quả. Triệu chứng đầu có thể nhận biết là lá cây trở nên vàng, sau đó rụng đi, trong khi đó các lá non lại không phát triển làm cho cây trở nên còi cọc. Quan sát rễ cây, ta thấy rễ có những vết loét, sau đó lan rộng nhanh chóng làm cho toàn bộ rễ cây bị thối. Bộ rễ cây bệnh thường ít rễ tơ, rễ ngắn với phần vỏ bị thối và rất dễ bị tuột ra khỏi rễ và cây bệnh sẽ chết.
Biện pháp phòng trị:
Để phòng trị bệnh này, cần có những biện pháp tổng hợp từ canh tác đến việc sử dụng thuốc hóa học như sau:
+ Sử dụng gốc ghép kháng bệnh: Đây là hướng phòng trị bệnh xì mủ, thối gốc do nấm phytophthora spp gây ra. Tuy nhiên cho đến nay chưa có gốc ghép của loại cây ăn qua nào được coi là kháng bệnh mà chỉ có một số loại gốc ghép có tính chống chịu khá với bệnh này.
+ Biện pháp canh tác: Phải chú ý cải thiện các yếu tố canh tác như đất đai thông thoáng, thoát nước tốt, khoảng cách cây trồng hợp lý tạo điều kiện cho cây trồng sinh trưởng phát triển khoẻ mạnh chống chịu với bệnh. Điều đáng chú ý là bón nhiều lượng phân hữu cơ và dùng các loại phân hoá học có hàm lượng N-P-K cân đối đã giúp cây ít bị nhiễm bệnh hơn. Khi bón phân nên chia làm nhiều lần bón. Khi xới đất, nhất là trong mùa mưa nên tránh gây tổn thương cho bộ rễ.
+ Biện pháp hoá học: Khi phát hiện cây bệnh phải sớm trị bằng thuốc hoá học kết hợp với việc cải thiện các yếu tố canh tác như trên. Hiện nay, hai loại thuốc được xem như là loại thuốc đặc trị của bệnh xì mủ, thối gốc là Aliette và Ridomil, tuy nhiên chúng chỉ có hiệu quả trong thực tế khi phòng trị sớm và đúng cách. Cách sử dụng phổ biến là cạo sạch vết bệnh rồi dùng 1 trong 2 loại thốc trên bôi lên vết bệnh với liều lượng 10g/ 1 lít nước. Cũng có thể phòng trị bằng cách dùng Aliette 80 WP từ 15-20 gr/ 10 lít nước phun ướt toàn thân.
Ngoài ra cũng có thể phun nấm đối kháng với nấm phytophthora.spp là nấm trichoderma hazianum để phòng trị. Cách dùng thông thường là trộn 1 kg nấm trichoderma với 40 kg phân chuồng rải xung quanh tán cây với liều lượng 2-3 kg hỗn hợp trên cho cây nhỏ hơn 5 tuổi và 5 kg cho cây trên 5 tuổi. Lưu ý khi sử dụng loại nấm này luôn giữ cho đất luôn ẩm và độ pH đất tốt nhất là 6,5 ( tức là đất ít phèn).
2. Bệnh loét hại cam, quýt
Bệnh loét phá hại cam, quýt thường làm rụng quả và lá, cây cằn cỗi chóng tàn. Ở vườn ươm, khi bị bệnh nặng cây con dễ chết, quả bị bệnh phẩm chất kém không thể xuất khẩu và cất trữ được. Ở nước ta, bệnh phá hại phổ biến tại tất cả các vùng trồng cam, quýt, gây thiệt hại đáng kể cho người trồng, làm ảnh hưởng lớn tới nguồn hàng xuất khẩu.
Triệu chứng
Ở lá non, triệu chứng bệnh ban đầu là những chấm nhỏ có đường kính trên dưới 1mm, màu trong vàng, thường thấy ở mặt dưới của lá, sau đó vết bệnh mở rộng và phá vỡ biểu bì mặt dưới lá, màu trắng nhạt hoặc nâu nhạt. Lá bệnh không biến đổi hình dạng nhưng dễ rụng, cây con bị bệnh nặng thường hay rụng lá. Bệnh phát sinh từ lộc xuân (tháng 3), tăng mạnh đến lộc hạ (tháng 7 và 8) rồi đến lộc đông (tháng 10 và 11) thì bệnh giảm dần và ngừng phát triển. Bệnh loét cam phát triển trong điều kiện nhiệt độ cao, vi khuẩn xâm nhiễm thích hợp ở nhiệt độ 25 – 300C, độ ẩm cao. Cây bị bệnh nặng nhất là bưởi, cam rồi đến chanh, còn các giống quýt có tính chống bệnh cao với bệnh loét. Tuổi cây càng non càng dễ bị nhiễm bệnh nặng, nhất là ở vườn ươm ghép cây giống thường bị bệnh nặng trong 1 - 2 năm đầu, cam từ 5 - 6 tuổi tỉ lệ bị bệnh thấp hơn. Cành vượt phát triển nhiều lộc thường bị bệnh nặng hơn. Sau khi nảy lộc 30 - 45 ngày ở giống cam đường rất dễ bị bệnh. Khi lộc cành bước vào ổn định nhưng chưa hóa già (nảy lộc được 50 - 60 ngày) tính nhiễm bệnh cao nhất, sau khi nảy lộc 90 - 110 ngày lộc già thì hầu như không bị nhiễm bệnh nữa. Sau khi hoa rụng 35 ngày, quả non kích thước khoảng 9mm lại bắt đầu bị nhiễm bệnh; đường kính quả từ 26 - 32mm (sau hoa rụng 60 - 80 ngày) tỉ lệ phát bệnh cao nhất; khi quả ngừng lớn và bắt đầu vàng thì hầu như không nhiễm bệnh nữa. Ngoài ra, sâu bùa vẽ cũng là môi giới truyền bệnh tạo nên vết thương để bệnh xâm nhiễm dễ dàng, nhất là trong vườn ươm cây giống.
Biện pháp phòng trừ
Biện pháp quan trọng nhất là chọn giống ghép chống bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh, biện pháp canh tác và phun thuốc bảo vệ theo một hệ thống tổng hợp.
- Tiêu diệt nguồn bệnh
Thu dọn sạch tàn dư bộ phận bị bệnh trong vườn ươm cũng như trong vườn quả; thường xuyên tỉa lá cành bị bệnh trong vườn ươm; dùng các mắt ghép không bị bệnh, gốc ghép chống chịu bệnh. Trồng cây giống không bị bệnh, cắt bỏ cành lá bị bệnh, tiêu diệt hủy bỏ những cây bị bệnh, thực hiện tốt biện pháp kiểm dịch thực vật, không chuyên chở và trồng cây giống có bệnh vào những vùng mới trồng cam.
- Phòng trừ bệnh bằng canh tác
Bón phân vào thời kỳ thích hợp, bón cân đối để cây phát triển bình thường, khống chế cành vượt, thận trọng khi tưới nước để tránh lây lan bệnh. Trồng rừng chắn gió thành giải, chắn đúng hướng gió chính của vườn ươm và vườn quả hoặc thành băng xen kẽ với hàng cây ăn quả.
- Biện pháp hóa học
Dùng thuốc hóa học (Boóc đô 1%) phun bảo vệ phòng chống bệnh từ khi ra lộc xuân được 20 ngày. Phun bảo vệ quả từ lúc hoa tàn, sau 50 - 60 ngày cần phun thuốc lặp lại để phòng trừ bệnh, trong năm có thể phun thuốc 4 lần để bảo vệ. Lần 1: phun lúc ra lộc xuân; lần 2: phun lúc rụng hoa quả non 9mm; lần 3: phun lúc có quả non 25 - 30mm; lần 4: phun vào tháng 9 - 10 nếu cần thiết. Tùy tình hình thời tiết và tốc độ phát triển bệnh mà số lần phun có thể thay đổi nhiều hoặc ít. Khi phun phải phun đều hai mặt lá, từ trong ra ngoài, từ cao xuống thấp. Mặt khác cần kết hợp phun thuốc trừ sâu bùa vẽ để hạn chế bệnh truyền lan. Ngoài ra, đã có nhiều thử nghiệm dùng chất kháng sinh ppm mỗi lần phun cách nhau 15 ngày đã cho kết quả tốt./.